“Y” nói dễ hiểu丨Tạm biệt “vết hoá trị”: Ngăn ngừa và phục hồi tình trạng tăng sắc tố da

Hiện tượng da trở nên sậm màu hoặc xuất hiện đốm đen sau hóa trị được gọi là sắc tố da sau hóa trị, là một trong những tác dụng phụ phổ biến của hóa trị. Hiện tượng này là sự tích tụ sắc tố trên da, bao gồm sự tích tụ sắc tố tại vùng da bị tổn thương, sự tích tụ sắc tố thứ phát do bệnh lý viêm da, hội chứng bàn tay-chân, v.v. Biểu hiện chính là sự gia tăng màu sắc của da hoặc xuất hiện sắc tố không đồng đều, đặc biệt ở các khu vực hở như mặt, chi, móng tay, nướu. Đáng chú ý, bệnh nhân nữ thường có triệu chứng rõ rệt hơn, không chỉ da sậm màu mà còn có thể xuất hiện các đốm hoặc mảng rõ rệt trên mặt. Sự thay đổi này không chỉ ảnh hưởng đến ngoại hình mà còn tăng gánh nặng tâm lý cho bệnh nhân, thậm chí gây ra cảm giác tự ti ảnh hưởng đến quá trình điều trị và tiên lượng bệnh.


Tại sao da lại trở nên sậm màu sau hóa trị?

Tác động độc hại trực tiếp của thuốc hóa trị lên tế bào hắc tố gây kích thích tổng hợp hắc tố.

Tác động độc hại của thuốc hóa trị lên tuyến thượng thận làm tăng tiết hormone kích thích tuyến thượng thận và hormone kích thích tế bào hắc tố.

Thiếu hụt các chất ức chế tyrosinase.

Sự hình thành phức hợp thuốc-hắc tố.

Tác động độc hại của thuốc lên tế bào keratin dẫn đến tích tụ sắc tố sau viêm.

Hóa trị có thể làm tổn thương chức năng gan, dẫn đến tích tụ độc tố, gián tiếp làm tăng sắc tố.

Hóa trị có thể gây rối loạn mức độ hormone (như estrogen), ảnh hưởng thêm đến sự chuyển hóa hắc tố.


Phân loại sắc tố da:

Phương pháp phân loại chung, áp dụng cho nhiều bệnh lý sắc tố, chủ yếu được chia thành bốn cấp độ.

Cấp 0 (không): Không có sắc tố nhìn thấy bằng mắt.

Cấp 1 (nhẹ): Màu sắc nhạt hơn, là nâu nhạt hoặc xám nhạt. Diện tích nhỏ, như đường kính <2cm hoặc ảnh hưởng đến <10% khuôn mặt.

Cấp 2 (vừa): Màu sắc sậm, là nâu đậm hoặc xám. Diện tích trung bình, như ảnh hưởng 10%-30% khuôn mặt hoặc một phần của thân thể/chi. Có thể ảnh hưởng đến vẻ đẹp, bệnh nhân có mong muốn điều trị, cũng là phạm vi phân loại phổ biến của bệnh nhân hóa trị.

Cấp 3 (nặng): Màu sắc rất đậm, gần như đen hoặc xanh xám. Diện tích rộng, ảnh hưởng >30% khuôn mặt hoặc phân bố rộng rãi trên cơ thể. Ảnh hưởng rõ rệt đến ngoại hình hoặc chất lượng cuộc sống, thường đi kèm với viêm hoặc kết hợp với các bệnh da khác.


Những loại thuốc hóa trị nào dễ gây sạm da?

Thuốc thuộc nhóm taxane, thuốc pyrimidine (chất chống chuyển hóa), thuốc anthracycline (kháng sinh chống ung thư), thuốc cyclophosphamide (chất alkyl hóa), cisplatin, bleomycin (sắc tố đen dạng sợi), gemcitabine, hydroxyurea, v.v.


Làm thế nào để đối mặt lý trí với tình trạng da sạm màu?

Sắc tố da do thuốc hóa trị gây ra thuộc loại thay đổi ngoại sinh, thường là tạm thời. Khi điều trị kết thúc, phần lớn bệnh nhân sẽ dần khôi phục sắc tố da bình thường. Từ góc độ sinh lý học da, các tế bào biểu bì mới từ lớp đáy di chuyển lên lớp sừng mất khoảng 14 ngày, trong khi lớp sừng hoàn toàn cập nhật cũng cần 14 ngày, vì vậy chu kỳ thay mới toàn bộ biểu bì khoảng 28 ngày. Khuyến khích bệnh nhân giữ kiên nhẫn, cho da thời gian tự phục hồi đầy đủ, không cần phải quá lo lắng.


Làm thế nào để phòng ngừa và phục hồi một cách khoa học?

Chuẩn bị chống nắng: Bệnh nhân có thể sử dụng áo chống nắng, đội mũ chống nắng, đeo găng tay, hoặc dùng dù khi ra ngoài để bảo vệ da khỏi ánh nắng mặt trời.

Tránh mặc quần áo làm từ sợi hóa học, len, nylon gây kích thích da, nên chọn trang phục thoải mái, mềm mại từ cotton, quần áo không nên chật chội hoặc quá chặt, gây ma sát da, làm tăng tích tụ sắc tố.

Sử dụng nước ấm để làm sạch da, không dùng nước nóng. Tránh sử dụng các sản phẩm tẩy rửa có thành phần có tính kiềm (như xà phòng) hoặc chứa cồn.

Khuyên bệnh nhân nên bôi kem dưỡng ẩm không gây kích ứng hàng ngày, như glycerin, kem dưỡng ẩm cho trẻ em, dầu dừa, sản phẩm chăm sóc da chứa hợp chất lô hội, v.v.

Khuyên dùng kem chống nắng có chỉ số SPF >15 (kem chống nắng vật lý chứa kẽm oxit hoặc titanium dioxide tốt hơn kem chống nắng hóa học), bôi trước khi ra ngoài 1-2 giờ, nếu tiếp xúc ánh nắng lâu, cần bôi lại sau vài giờ; trong thời gian điều trị, nên cẩn thận khi sử dụng sản phẩm làm trắng, cần nghe theo ý kiến bác sĩ.

Tập thể dục vừa phải và uống nhiều nước. Uống nhiều nước giúp thải độc tố trong cơ thể và tuần hoàn máu, việc tế bào da được cung cấp đủ nước có thể giúp nhanh chóng loại bỏ hắc tố do thuốc gây ra, vừa hiệu quả vừa tiết kiệm. Tập thể dục vừa phải thúc đẩy quá trình trao đổi chất, giúp thải độc tố.

Ăn thực phẩm giàu vitamin C và vitamin E: thực phẩm chứa vitamin C bao gồm cà chua, bí đỏ, kiwi, cam, bưởi, khoai lang; thực phẩm giàu vitamin E: quả óc chó, hạt thông, đậu phộng, mè, ngũ cốc, thịt nạc. Hai loại vitamin này có khả năng chống oxy hóa và phục hồi tốt, ngăn ngừa hiệu quả sự tích tụ của hắc tố trong da, ngăn chặn sự hình thành đốm và mảng trên mặt.

Không ăn thực phẩm nhạy cảm với ánh sáng: cần tây, rau cần, cải bó xôi, củ cải trắng, rau dền, cải xanh, rau muống, hẹ, cải thìa, ngò rí, thì là, xoài, đu đủ, quả sung, v.v. Những thực phẩm này dưới tác động của tia cực tím năng lượng cao sẽ làm tăng tổn thương da, giảm khả năng chống nắng của da, làm tăng sắc tố. Bên cạnh đó, tôm, cua, sò, v.v. cũng thuộc nhóm thực phẩm nhạy cảm với ánh sáng. Tuy nhiên, những thực phẩm này chứa nhiều dinh dưỡng, có thể tiêu thụ vừa phải.

Đảm bảo giấc ngủ tốt, tích cực điều chỉnh tâm trạng: Giấc ngủ ngon không chỉ phục hồi sức lực mà còn tạo điều kiện cho da tự phục hồi. Phần lớn các dấu hiệu tích tụ sắc tố sẽ dần giảm sau 3-6 tháng kết thúc hóa trị, điều chỉnh tâm trạng, tránh lo âu khiến rối loạn nội tiết.

Điều trị bằng thuốc tây: Có kinh nghiệm cho thấy việc truyền vitamin C tĩnh mạch và glutathione có tính khôi phục ở bệnh nhân sạm màu da có tác dụng cải thiện nhất định, cần phải có sự hướng dẫn của bác sĩ chuyên khoa.

Điều trị bằng y học cổ truyền: Có nghiên cứu liên quan trong lĩnh vực y học cổ truyền cho thấy rằng thuốc bát ngọc có tác dụng bổ khí, dưỡng huyết, hoạt huyết, thúc đẩy tuần hoàn máu, cải thiện chuyển hóa da, có tác dụng làm giảm sắc tố; trong khi thuốc trị trĩ có thành phần gỗ hươu đã được sử dụng trên lâm sàng và trong đời sống hàng ngày như một chế phẩm bôi ngoài, dùng cho các bệnh lý vùng hậu môn như trĩ, có tác dụng thanh nhiệt, tiêu viêm, hoạt huyết, tiêu sưng, hồi phục tổn thương. Ngoài việc điều trị bệnh trĩ, thuốc này còn được áp dụng để điều trị loét do tỳ vị, bỏng và sắc tố, ghi nhận cho thấy hiệu quả điều trị tốt. Khuyến cáo bệnh nhân nên thực hiện theo chỉ dẫn của bác sĩ có kinh nghiệm kết hợp y học cổ truyền và y học hiện đại trong điều trị ung thư ác tính, không nên tự ý thử nghiệm điều trị.


Kết luận

Số lượng bệnh nhân mắc ung thư ác tính ngày càng tăng, hóa trị trở thành phương pháp chủ yếu trong điều trị ung thư, gần như liên quan đến tất cả các loại ung thư. Thuốc hóa trị có nhiều tác dụng phụ, tình trạng sắc tố là một trong những tác dụng phụ nhẹ, dù không đe dọa tính mạng nhưng lại gây ra những tác động tâm lý không nhỏ cho bệnh nhân khi nhìn nhận về ngoại hình tổng thể của mình. Tôi muốn nhắn gửi tới tất cả những bệnh nhân gặp phải sự thay đổi sắc tố da sau hóa trị rằng phần lớn sự không đồng đều của sắc tố da, sạm màu, thậm chí xuất hiện đốm đen đốm nâu là tạm thời, bệnh nhân ung thư, đặc biệt là bệnh nhân nữ, không cần phải lo lắng và tự ti. Nhận thức đầy đủ + phòng ngừa khoa học + phục hồi kiên nhẫn + tâm trạng tích cực = phục hồi sắc tố khỏe mạnh. Trong quá trình điều trị, mục tiêu chính nên là việc phục hồi bệnh tình, đồng thời giảm thiểu tác dụng phụ của thuốc thông qua chăm sóc bản thân hợp lý.

Tác giả:

Hồ Như Ý, Điều dưỡng trưởng, Khoa nội nhi tại Trung tâm Y tế quân đội số 7

Nhậm Hướng Phương, Điều dưỡng trưởng, Khoa nội nhi tại Trung tâm Y tế quân đội số 7

Kiểm duyệt: Tạ Hoa Vĩ, Bác sĩ phó trưởng khoa, Trung tâm Y tế quân đội số 7

Lưu ý: Hình ảnh bìa là hình ảnh thuộc bản quyền, việc sao chép có thể gây ra tranh chấp bản quyền.