Có những dấu hiệu nào trên cơ thể mà bạn không thể bỏ qua, có thể là triệu chứng sớm của ung thư!

Triệu chứng ung thư ở giai đoạn đầu thường không rõ ràng, nhiều bệnh nhân khi được chẩn đoán đã bỏ lỡ thời điểm điều trị tốt nhất. Tại sao khám sức khỏe định kỳ lại khó phát hiện? Tại sao mỗi năm kiểm tra đều bình thường, khi phát hiện lại là ung thư giai đoạn giữa hoặc cuối? Cơ thể xuất hiện những triệu chứng nào cần phải cảnh giác? Chúng ta nên làm gì trong cuộc sống để phòng ngừa? Hãy cùng xem câu trả lời từ các chuyên gia.


Tại sao triệu chứng ung thư ở giai đoạn đầu khó phát hiện?

Triệu chứng ung thư ở giai đoạn đầu khó phát hiện liên quan chủ yếu đến ba yếu tố trong cơ thể:

Thứ nhất, các cơ quan như gan, phổi, thận thiếu cảm giác đau, ngay cả khi có khối u cũng có thể không có cảm giác đau. Chỉ khi khối u xâm lấn vào bao nang hoặc tổ chức xung quanh mới gây ra triệu chứng đau đớn hoặc chèn ép.

Thứ hai, tế bào ung thư có thể ngụy trang thành tế bào bình thường để trốn tránh sự giám sát của hệ miễn dịch, ở giai đoạn đầu chỉ phát triển với kích thước nhỏ và chậm rãi, khó gây ra phản ứng viêm hoặc khó chịu.

Hơn nữa, các cơ quan trong cơ thể có khả năng bù đắp mạnh mẽ, ngay cả khi một phần mô bị tổn thương, các mô khỏe mạnh còn lại vẫn có thể duy trì hoạt động bình thường, che giấu các biểu hiện bất thường.

Trong việc kiểm tra, vì các chỉ số kiểm tra sức khỏe định kỳ như xét nghiệm máu, chức năng gan chủ yếu nhằm kiểm tra các chỉ số sức khỏe cơ bản, nên ung thư giai đoạn đầu thường không gây ra sự bất thường ở những chỉ số này. Chỉ có thể phát hiện hiệu quả thông qua các kiểm tra đặc biệt có mục đích. Ví dụ, ung thư dạ dày giai đoạn đầu có thể chỉ biểu hiện dưới dạng thay đổi nhẹ của niêm mạc dạ dày, chỉ có thể phát hiện qua nội soi và sinh thiết.


Không được bỏ qua những tín hiệu sau từ cơ thể

1. Khối u bất thường: Xuất hiện khối u cứng, biên giới không rõ ràng và gia tăng nhanh chóng ở vùng vú, cổ, nách.

2. Chảy máu không rõ nguyên nhân: Ho ra máu có thể là dấu hiệu của ung thư phổi, chảy máu trong phân hoặc phân đen cần kiểm tra ung thư ruột, ra máu khi mãn kinh cần cảnh giác với ung thư niêm mạc tử cung.

3. Cảm giác không thoải mái kéo dài: Ho khan kéo dài hơn hai tuần, khó nuốt, giảm cân không rõ lý do (giảm hơn 10% trọng lượng trong vòng nửa năm).

4. Rối loạn hệ tiêu hóa: Bụng luôn cảm thấy đầy hơi, ăn uống đột ngột giảm, thói quen đi tiêu thay đổi (như táo bón, tiêu chảy luân phiên), đặc biệt là những người có tiền sử gia đình ung thư, người hút thuốc lá, uống rượu nhiều, tiếp xúc với chất gây ung thư, bệnh nhân mắc bệnh mãn tính nên đặc biệt chú ý.


Năm loại ung thư phổ biến cần được sàng lọc sớm

1. Ung thư phổi: Khuyến nghị cho những người từ 50 tuổi trở lên, người hút thuốc lâu năm, người có tiền sử tiếp xúc với amiăng/radon, có tiền sử gia đình ung thư phổi nên thực hiện chụp CT liều thấp mỗi năm. Liều bức xạ chỉ bằng 1/5 so với chụp CT thông thường. Nếu phát hiện nốt mờ trong phổi hoặc một phần nốt đặc, cần rút ngắn khoảng thời gian kiểm tra lại.

2. Ung thư vú: Khuyến nghị cho phụ nữ trên 40 tuổi, chưa sinh con hoặc sinh muộn, có tiền sử gia đình ung thư vú, có đột biến gen BRCA, mỗi năm sau 40 tuổi nên thực hiện siêu âm vú, từ 45 tuổi kết hợp với chụp quang tuyến vú (ultrasound là lựa chọn hàng đầu cho vú dày). Lưu ý: tự kiểm tra không thể thay thế kiểm tra chuyên nghiệp, chỉ có thể phát hiện các mảng canxi hóa nhỏ qua chụp quang tuyến vú.

3. Ung thư gan: Khuyến nghị cho những người bị nhiễm viêm gan B/C, người bệnh xơ gan, những người uống rượu lâu dài, cần kiểm tra mỗi 6 tháng (bệnh nhân xơ gan có thể rút ngắn xuống còn mỗi 3 tháng một lần), các kiểm tra bao gồm: xét nghiệm AFP trong huyết thanh + siêu âm gan, nếu nghi ngờ có biến chứng thì cần làm CT/MRI tăng sáng để xác nhận.

4. Ung thư dạ dày: Khuyến nghị cho những người bị nhiễm vi khuẩn Helicobacter pylori, người mắc viêm dạ dày teo mãn tính, những người thích ăn thực phẩm muối, nên thực hiện nội soi dạ dày + sinh thiết mỗi 1-2 năm, có thể quan sát trực tiếp các biến đổi niêm mạc và lấy mẫu để kiểm tra. Đối với nhóm bình thường trên 40 tuổi, nên thực hiện nội soi dạ dày + sinh thiết mỗi 3-5 năm. Nếu đã xác định có nhiễm Helicobacter pylori, có thể thực hiện điều trị kháng sinh.

5. Ung thư đại trực tràng: Khuyến nghị cho những người từ 50 tuổi trở lên, có tiền sử polyp ruột hoặc viêm ruột mãn tính, thực hiện nội soi ruột, nếu phát hiện polyp có thể cắt bỏ trực tiếp, có thể giảm 90% nguy cơ biến chứng. Nếu lần kiểm tra đầu tiên bình thường, sau mỗi 5-10 năm cần kiểm tra lại; những người đã cắt polyp thì cần theo dõi kiểm tra lại mỗi 1-3 năm.


Những phương pháp này có thể giảm nguy cơ mắc ung thư hiệu quả

1. Bỏ thuốc lá, hạn chế rượu: Tổ chức Nghiên cứu Ung thư Quốc tế (IARC) xác định thuốc lá là tác nhân gây ung thư loại 1, nguy cơ ung thư phổi của người hút thuốc là gấp 13 lần so với người không hút thuốc. Tổ chức Y tế Thế giới cũng liệt kê thuốc lá vào danh sách tác nhân gây ung thư loại 1. Nghiên cứu chứng minh rằng các sản phẩm chuyển hóa rượu (như acetaldehyde) có thể gây tổn thương DNA, can thiệp vào sự phục hồi tế bào và tăng nguy cơ mắc nhiều loại ung thư.

2. Chế độ ăn uống hợp lý: Thực phẩm muối chứa nitrosamine, trong khi thực phẩm nướng dễ sản sinh benzo(a)pyrene, có thể gây tổn thương DNA tế bào, vì vậy nên ăn nhiều trái cây và rau quả tươi giàu chất chống oxy hóa và ngũ cốc nguyên hạt, chất xơ từ thực phẩm có thể hiệu quả ngăn ngừa ung thư ruột.

3. Kiểm soát cân nặng: Béo phì là một trong những yếu tố nguy cơ gây ung thư. Người có chỉ số BMI trên 24 có nguy cơ ung thư vú tăng 30%, nguy cơ ung thư ruột tăng 50%.

4. Tập thể dục thường xuyên: Thực hiện 150 phút đi bộ nhanh hoặc bơi lội mỗi tuần có thể giảm 20% nguy cơ ung thư vú.

5. Bảo vệ môi trường: Một mặt, tránh xa khói dầu, khói dầu chứa 74 loại tác nhân gây ung thư; mặt khác, tránh nắng quá mức, tia cực tím dễ gây ung thư da.

Các bác sĩ nhắc nhở rằng, tỷ lệ sống sót 5 năm của bệnh nhân ung thư dạ dày giai đoạn đầu vượt quá 90%, trong khi bệnh nhân giai đoạn cuối chưa đến 30%. Sàng lọc ung thư không phải là “tìm bệnh không có bệnh”, mà là đổi lấy một thời gian sống dài hơn với chi phí nhỏ nhất có thể. Do đó, khuyến cáo người bình thường từ 40 tuổi trở đi nên có quy trình đánh giá nguy cơ mắc ung thư một cách định kỳ, còn đối với nhóm có nguy cơ cao thì càng cần khởi động sàng lọc đặc biệt sớm hơn. Thuốc chống ung thư tốt nhất, mãi mãi là “phát hiện sớm”.

Tác giả: Kỳ Minh Hoa

Nguồn: Khoa Xạ trị Bệnh viện Ung thư Tỉnh Giang Tô, Ủy ban chuyên đề phòng chống ung thư Hiệp hội Nghiên cứu Sức khỏe Tỉnh Giang Tô